Pháp luật bãi bỏ quy định nhà nước độc quyền kinh doanh vàng miếng
1/ Trong Nghị định 24, có đề xuất điều chỉnh cơ chế độc quyền sản xuất vàng miếng. Vậy để bãi bỏ cơ chế này, các doanh nghiệp cần điều kiện gì để được cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng?
Trước đây, tại Điều 4 Nghị định 24/2012/NĐ-CP quy định nguyên tắc quản lý hoạt động kinh doanh vàng như sau:“…3. Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng…”
Theo quy định trên thì nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng. Tuy nhiện, tại Nghị định 232/2025/NĐ-CP đã bãi bỏ khoản 3 Điều 4 của Nghị định 24/2012/NĐ-CP.
Đồng thời, theo Khoản 7 Điều 1 Nghị định 232/2025/NĐ-CP (có hiệu lực từ 10/10/2025) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng thì doanh nghiệp hoặc ngân hàng thương mại muốn được cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng phải đáp ứng các điều kiện sau:
“Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng
7. Bổ sung Điều 11a sau Điều 11 như sau:
“Điều 11a. Điều kiện cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng
1. Doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:
a) Có Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng;
b) Có vốn điều lệ từ 1.000 tỷ đồng trở lên;
c) Không bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng nhưng đã thực hiện xong các biện pháp khắc phục hậu quả theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, các kiến nghị có thời hạn thực hiện tại Kết luận thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (nếu có);
d) Có quy định nội bộ quy định về sản xuất vàng miếng bao gồm những nội dung cơ bản như quy trình nhập nguyên liệu; quy trình sản xuất vàng miếng; quy trình giám sát sản xuất; quy trình kiểm soát chất lượng sản phẩm.
2. Ngân hàng thương mại được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:
a) Có Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng;
b) Có vốn điều lệ từ 50.000 tỷ đồng trở lên;
c) Không bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng nhưng đã thực hiện xong các biện pháp khắc phục hậu quả theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, các kiến nghị có thời hạn thực hiện tại Kết luận thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (nếu có);
d) Có quy định nội bộ quy định về sản xuất vàng miếng bao gồm những nội dung cơ bản như quy trình nhập nguyên liệu; quy trình sản xuất vàng miếng; quy trình giám sát sản xuất; quy trình kiểm soát chất lượng sản phẩm.
3. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng.”
Như vậy, thay vì Nhà nước độc quyền như trước đây, khuôn khổ pháp lý mới mở ra cánh cửa cho các doanh nghiệp, ngân hàng đủ điều kiện tham gia, nhưng đi kèm là yêu cầu rất chặt chẽ nhằm bảo đảm an toàn thị trường và quyền lợi người tiêu dùng.
2/ Ngoài vàng miếng, nghị định mới còn bổ sung trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ. Theo ông/bà, những nghĩa vụ mới này sẽ tác động thế nào đến thị trường, đặc biệt là việc quản lý chất lượng, truy xuất nguồn gốc và quyền lợi người tiêu dùng?
Căn cứ Khoản 9 Điều 1 Nghị định 232/2025/NĐ-CP (có hiệu lực từ 10/10/2025) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng thì trách nhiệm của doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ là:
“Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng
9. Sửa đổi, bổ sung Điều 14 như sau:
“Điều 14. Xuất khẩu, nhập khẩu vàng
10. Trách nhiệm của các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại, được cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu vàng quy định tại khoản 1 Điều này:
a) Chỉ được phép nhập khẩu vàng miếng, vàng nguyên liệu có hàm lượng từ 99,5% trở lên;
b) Công bố tiêu chuẩn áp dụng, khối lượng, hàm lượng của vàng miếng, vàng nguyên liệu nhập khẩu theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tiêu chuẩn công bố áp dụng, khối lượng, hàm lượng sản phẩm đã nhập khẩu đúng với tiêu chuẩn, khối lượng, hàm lượng đã công bố;
c) Xây dựng và báo cáo Ngân hàng Nhà nước quy định nội bộ về xuất khẩu, nhập khẩu, biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng;
d) Xây dựng quy định nội bộ về việc bán vàng nguyên liệu đảm bảo công khai, minh bạch; công bố công khai thông tin về việc bán vàng nguyên liệu, quyền và nghĩa vụ của khách hàng; lưu trữ đầy đủ, chính xác dữ liệu về xuất khẩu, nhập khẩu, giao dịch mua bán vàng nguyên liệu;
đ) Sử dụng vàng nguyên liệu nhập khẩu cho các mục đích:
đ.1) Sản xuất vàng miếng;
đ.2) Sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ;
đ.3) Bán cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại được cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng;
đ.4) Bán cho doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.
e) Xây dựng hệ thống thông tin để xử lý, lưu trữ dữ liệu về xuất khẩu, nhập khẩu, giao dịch mua bán vàng nguyên liệu có những nội dung cơ bản bao gồm các thông tin về đối tác, khối lượng, hàm lượng và giá trị giao dịch; thực hiện kết nối cung cấp thông tin cho Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước;
g) Tuân thủ các quy định tại Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan.””
Như vậy, quy định mới tại Nghị định 232, doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ phải chịu trách nhiệm công bố tiêu chuẩn, gắn nhãn đúng thực tế và truy xuất nguồn gốc nguyên liệu. Điều này giúp cơ quan quản lý kiểm soát chất lượng sản phẩm, ngăn chặn gian lận tuổi vàng và buôn lậu, đồng thời tạo cơ chế pháp lý rõ ràng để bảo vệ người tiêu dùng. Có thể nói, sự thay đổi này vừa phù hợp với Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007 và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2023, vừa góp phần xây dựng một thị trường vàng minh bạch và đáng tin cậy hơn.
3/ Trong trường hợp mở cửa sản xuất, Ngân hàng Nhà nước sẽ còn vai trò nào trong việc quản lý và điều tiết thị trường vàng, đặc biệt là bảo đảm an ninh tiền tệ quốc gia?
Tại Khoản 10 Điều 1 Nghị định 232/2025/NĐ-CP (có hiệu lực từ 10/10/2025) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng vẫn nêu rõ trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước. Theo đó, mặc dù đã chấm dứt cơ chế độc quyền vàng miếng, Ngân hàng Nhà nước vẫn giữ vai trò trung tâm trong quản lý và điều tiết thị trường. Cơ quan này là nơi cấp phép, giám sát sản xuất, đồng thời quy định tiêu chuẩn kỹ thuật, quản lý xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu và can thiệp khi cần để ổn định cung – cầu. Cách tiếp cận này phù hợp với chức năng được giao tại Luật Ngân hàng Nhà nước 2010, bảo đảm thị trường vàng vận hành minh bạch nhưng vẫn gắn chặt với mục tiêu lớn nhất là giữ vững an ninh tiền tệ và ổn định kinh tế vĩ mô.
4/ Dự thảo nghị định cũng bổ sung quy định về thanh toán trong mua bán vàng, khuyến khích sử dụng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt. Về mặt pháp lý, quy định này có ý nghĩa thế nào trong việc minh bạch hóa thị trường và phòng chống rửa tiền?
Theo Nghị định 232/2025/NĐ-CP bổ sung khoản 10 Điều 4 Nghị định 24/2012/NĐ-CP như sau:
“Nguyên tắc quản lý
...
"Việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài."
Theo đó, việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Quy định mới này có ý nghĩa rất lớn về pháp lý, bởi vì nó tạo điều kiện minh bạch hóa dòng tiền, hạn chế giao dịch ngầm, đồng thời hỗ trợ thực thi Luật Phòng, chống rửa tiền 2022 trong việc ngăn chặn việc lợi dụng vàng để che giấu nguồn tiền bất hợp pháp. Ngoài ra, việc thanh toán qua ngân hàng cũng giúp cơ quan quản lý dễ dàng giám sát và bảo vệ người tiêu dùng trong trường hợp có tranh chấp. Nói cách khác, đây là bước tiến để đưa thị trường vàng vào khuôn khổ quản lý tài chính hiện đại, gắn với chuẩn mực quốc tế.
5/ Xin ông/bà cho biết, để việc sửa đổi quy định về quản lý sản xuất vàng miếng đi vào thực tế, cần hoàn thiện thêm những quy định pháp lý nào? Và liệu đã đến lúc cần một đạo luật riêng về quản lý vàng thay vì chỉ dừng ở nghị định hành chính?
Nghị định 232/2025/NĐ-CP, với việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 24/2012/NĐ-CP, đã tạo ra khuôn khổ pháp lý toàn diện hơn cho thị trường vàng nhưng để đi vào thực tế hiệu quả, cần có các văn bản hướng dẫn chi tiết về tiêu chuẩn kỹ thuật, cơ chế cấp – thu hồi giấy phép, cũng như quy trình giám sát chất lượng và truy xuất nguồn gốc. Điều này bảo đảm tính khả thi, tránh tình trạng “giấy phép treo” hoặc khoảng trống pháp lý trong thực thi. Do đó, cần ban hành thông tư hướng dẫn chi tiết về quy trình cấp phép, kiểm định chất lượng vàng, cơ chế báo cáo định kỳ cũng xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành giữa NHNN, Bộ Công thương, Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính để giám sát đồng bộ. Đồng thời, hoàn thiện quy định về xử phạt vi phạm hành chính và trách nhiệm hình sự khi có gian lận vàng.
Về lâu dài, theo tôi, việc chỉ dừng lại ở nghị định hành chính có thể chưa đủ. Thị trường vàng gắn trực tiếp với ổn định tài chính – tiền tệ quốc gia, tương tự như ngoại hối hay ngân hàng, vốn đã được điều chỉnh bằng luật chuyên ngành (Luật Ngân hàng Nhà nước 2010, Luật Các tổ chức tín dụng 2010, Luật Phòng, chống rửa tiền 2022). Do đó, đã đến lúc cần nghiên cứu xây dựng một đạo luật riêng về quản lý vàng, để tạo cơ sở pháp lý cao hơn, thống nhất và lâu dài, đồng thời nâng mức chế tài xử lý vi phạm, bảo đảm thị trường vàng phát triển minh bạch, bền vững và gắn với chuẩn mực quốc tế.
Trước đây, tại Điều 4 Nghị định 24/2012/NĐ-CP quy định nguyên tắc quản lý hoạt động kinh doanh vàng như sau:“…3. Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng…”
Theo quy định trên thì nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất khẩu vàng nguyên liệu và nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng. Tuy nhiện, tại Nghị định 232/2025/NĐ-CP đã bãi bỏ khoản 3 Điều 4 của Nghị định 24/2012/NĐ-CP.
Đồng thời, theo Khoản 7 Điều 1 Nghị định 232/2025/NĐ-CP (có hiệu lực từ 10/10/2025) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng thì doanh nghiệp hoặc ngân hàng thương mại muốn được cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng phải đáp ứng các điều kiện sau:
“Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng
7. Bổ sung Điều 11a sau Điều 11 như sau:
“Điều 11a. Điều kiện cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng
1. Doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:
a) Có Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng;
b) Có vốn điều lệ từ 1.000 tỷ đồng trở lên;
c) Không bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng nhưng đã thực hiện xong các biện pháp khắc phục hậu quả theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, các kiến nghị có thời hạn thực hiện tại Kết luận thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (nếu có);
d) Có quy định nội bộ quy định về sản xuất vàng miếng bao gồm những nội dung cơ bản như quy trình nhập nguyên liệu; quy trình sản xuất vàng miếng; quy trình giám sát sản xuất; quy trình kiểm soát chất lượng sản phẩm.
2. Ngân hàng thương mại được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:
a) Có Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng;
b) Có vốn điều lệ từ 50.000 tỷ đồng trở lên;
c) Không bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động kinh doanh vàng nhưng đã thực hiện xong các biện pháp khắc phục hậu quả theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, các kiến nghị có thời hạn thực hiện tại Kết luận thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (nếu có);
d) Có quy định nội bộ quy định về sản xuất vàng miếng bao gồm những nội dung cơ bản như quy trình nhập nguyên liệu; quy trình sản xuất vàng miếng; quy trình giám sát sản xuất; quy trình kiểm soát chất lượng sản phẩm.
3. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định hồ sơ, thủ tục cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng.”
Như vậy, thay vì Nhà nước độc quyền như trước đây, khuôn khổ pháp lý mới mở ra cánh cửa cho các doanh nghiệp, ngân hàng đủ điều kiện tham gia, nhưng đi kèm là yêu cầu rất chặt chẽ nhằm bảo đảm an toàn thị trường và quyền lợi người tiêu dùng.
2/ Ngoài vàng miếng, nghị định mới còn bổ sung trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ. Theo ông/bà, những nghĩa vụ mới này sẽ tác động thế nào đến thị trường, đặc biệt là việc quản lý chất lượng, truy xuất nguồn gốc và quyền lợi người tiêu dùng?
Căn cứ Khoản 9 Điều 1 Nghị định 232/2025/NĐ-CP (có hiệu lực từ 10/10/2025) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng thì trách nhiệm của doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ là:
“Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng
9. Sửa đổi, bổ sung Điều 14 như sau:
“Điều 14. Xuất khẩu, nhập khẩu vàng
10. Trách nhiệm của các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại, được cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu vàng quy định tại khoản 1 Điều này:
a) Chỉ được phép nhập khẩu vàng miếng, vàng nguyên liệu có hàm lượng từ 99,5% trở lên;
b) Công bố tiêu chuẩn áp dụng, khối lượng, hàm lượng của vàng miếng, vàng nguyên liệu nhập khẩu theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tiêu chuẩn công bố áp dụng, khối lượng, hàm lượng sản phẩm đã nhập khẩu đúng với tiêu chuẩn, khối lượng, hàm lượng đã công bố;
c) Xây dựng và báo cáo Ngân hàng Nhà nước quy định nội bộ về xuất khẩu, nhập khẩu, biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng;
d) Xây dựng quy định nội bộ về việc bán vàng nguyên liệu đảm bảo công khai, minh bạch; công bố công khai thông tin về việc bán vàng nguyên liệu, quyền và nghĩa vụ của khách hàng; lưu trữ đầy đủ, chính xác dữ liệu về xuất khẩu, nhập khẩu, giao dịch mua bán vàng nguyên liệu;
đ) Sử dụng vàng nguyên liệu nhập khẩu cho các mục đích:
đ.1) Sản xuất vàng miếng;
đ.2) Sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ;
đ.3) Bán cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại được cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng;
đ.4) Bán cho doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ.
e) Xây dựng hệ thống thông tin để xử lý, lưu trữ dữ liệu về xuất khẩu, nhập khẩu, giao dịch mua bán vàng nguyên liệu có những nội dung cơ bản bao gồm các thông tin về đối tác, khối lượng, hàm lượng và giá trị giao dịch; thực hiện kết nối cung cấp thông tin cho Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước;
g) Tuân thủ các quy định tại Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan.””
Như vậy, quy định mới tại Nghị định 232, doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ phải chịu trách nhiệm công bố tiêu chuẩn, gắn nhãn đúng thực tế và truy xuất nguồn gốc nguyên liệu. Điều này giúp cơ quan quản lý kiểm soát chất lượng sản phẩm, ngăn chặn gian lận tuổi vàng và buôn lậu, đồng thời tạo cơ chế pháp lý rõ ràng để bảo vệ người tiêu dùng. Có thể nói, sự thay đổi này vừa phù hợp với Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007 và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2023, vừa góp phần xây dựng một thị trường vàng minh bạch và đáng tin cậy hơn.
3/ Trong trường hợp mở cửa sản xuất, Ngân hàng Nhà nước sẽ còn vai trò nào trong việc quản lý và điều tiết thị trường vàng, đặc biệt là bảo đảm an ninh tiền tệ quốc gia?
Tại Khoản 10 Điều 1 Nghị định 232/2025/NĐ-CP (có hiệu lực từ 10/10/2025) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng vẫn nêu rõ trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước. Theo đó, mặc dù đã chấm dứt cơ chế độc quyền vàng miếng, Ngân hàng Nhà nước vẫn giữ vai trò trung tâm trong quản lý và điều tiết thị trường. Cơ quan này là nơi cấp phép, giám sát sản xuất, đồng thời quy định tiêu chuẩn kỹ thuật, quản lý xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu và can thiệp khi cần để ổn định cung – cầu. Cách tiếp cận này phù hợp với chức năng được giao tại Luật Ngân hàng Nhà nước 2010, bảo đảm thị trường vàng vận hành minh bạch nhưng vẫn gắn chặt với mục tiêu lớn nhất là giữ vững an ninh tiền tệ và ổn định kinh tế vĩ mô.
4/ Dự thảo nghị định cũng bổ sung quy định về thanh toán trong mua bán vàng, khuyến khích sử dụng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt. Về mặt pháp lý, quy định này có ý nghĩa thế nào trong việc minh bạch hóa thị trường và phòng chống rửa tiền?
Theo Nghị định 232/2025/NĐ-CP bổ sung khoản 10 Điều 4 Nghị định 24/2012/NĐ-CP như sau:
“Nguyên tắc quản lý
...
"Việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài."
Theo đó, việc thanh toán mua, bán vàng có giá trị từ 20 triệu đồng trong ngày trở lên của một khách hàng phải được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của khách hàng và tài khoản thanh toán của doanh nghiệp kinh doanh vàng mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Quy định mới này có ý nghĩa rất lớn về pháp lý, bởi vì nó tạo điều kiện minh bạch hóa dòng tiền, hạn chế giao dịch ngầm, đồng thời hỗ trợ thực thi Luật Phòng, chống rửa tiền 2022 trong việc ngăn chặn việc lợi dụng vàng để che giấu nguồn tiền bất hợp pháp. Ngoài ra, việc thanh toán qua ngân hàng cũng giúp cơ quan quản lý dễ dàng giám sát và bảo vệ người tiêu dùng trong trường hợp có tranh chấp. Nói cách khác, đây là bước tiến để đưa thị trường vàng vào khuôn khổ quản lý tài chính hiện đại, gắn với chuẩn mực quốc tế.
5/ Xin ông/bà cho biết, để việc sửa đổi quy định về quản lý sản xuất vàng miếng đi vào thực tế, cần hoàn thiện thêm những quy định pháp lý nào? Và liệu đã đến lúc cần một đạo luật riêng về quản lý vàng thay vì chỉ dừng ở nghị định hành chính?
Nghị định 232/2025/NĐ-CP, với việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 24/2012/NĐ-CP, đã tạo ra khuôn khổ pháp lý toàn diện hơn cho thị trường vàng nhưng để đi vào thực tế hiệu quả, cần có các văn bản hướng dẫn chi tiết về tiêu chuẩn kỹ thuật, cơ chế cấp – thu hồi giấy phép, cũng như quy trình giám sát chất lượng và truy xuất nguồn gốc. Điều này bảo đảm tính khả thi, tránh tình trạng “giấy phép treo” hoặc khoảng trống pháp lý trong thực thi. Do đó, cần ban hành thông tư hướng dẫn chi tiết về quy trình cấp phép, kiểm định chất lượng vàng, cơ chế báo cáo định kỳ cũng xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành giữa NHNN, Bộ Công thương, Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính để giám sát đồng bộ. Đồng thời, hoàn thiện quy định về xử phạt vi phạm hành chính và trách nhiệm hình sự khi có gian lận vàng.
Về lâu dài, theo tôi, việc chỉ dừng lại ở nghị định hành chính có thể chưa đủ. Thị trường vàng gắn trực tiếp với ổn định tài chính – tiền tệ quốc gia, tương tự như ngoại hối hay ngân hàng, vốn đã được điều chỉnh bằng luật chuyên ngành (Luật Ngân hàng Nhà nước 2010, Luật Các tổ chức tín dụng 2010, Luật Phòng, chống rửa tiền 2022). Do đó, đã đến lúc cần nghiên cứu xây dựng một đạo luật riêng về quản lý vàng, để tạo cơ sở pháp lý cao hơn, thống nhất và lâu dài, đồng thời nâng mức chế tài xử lý vi phạm, bảo đảm thị trường vàng phát triển minh bạch, bền vững và gắn với chuẩn mực quốc tế.
